Tại sao bạn không được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp?
Đối với nhiều người lao động sau khi nghỉ việc, mất việc thì khoản tiền trợ cấp thất nghiệp là một trong những nguồn thu nhập chủ yếu giúp họ có thể trang trải cuộc sống trong thời gian tìm việc mới.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp người lao động sẽ không được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp vì một nguyên nhân nào đó?
Sau đây là những nguyên nhân phổ biến có thể dẫn đến điều này, người lao động cần lưu ý để có thể tránh:
1. Thứ nhất, do người lao động nghỉ việc trái pháp luật.
Để được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp, người lao động cần đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 49 Luật việc làm năm 2013. Trong đó, có điều kiện về việc chấm dứt hợp đồng lao động.
Theo đó, người lao động sẽ không được nhận trợ cấp thất nghiệp nếu chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Mà cụ thể ở đây là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Vậy đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là gì?
Theo Điều 39 Bộ luật lao động năm 2019 thì đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 35, 36 và 37 của Bộ luật lao động năm 2019.
Do đó, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019.
Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
2. Thứ hai, do người lao động chưa có đủ thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định.
Điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp là một trong những điều kiện bắt buộc khi giải quyết chế độ trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
Theo đó, người lao động cần phải đáp ứng điều kiện đã đóng bảo hiểm thất nghiệp như sau:
– Đóng từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động có xác định thời hạn;
– Đóng từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
(Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn 2 loại hợp đồng lao động nên trong thời gian tới, quy định này có thể sẽ bị sửa đổi cho phù hợp với quy định của Bộ luật lao động hiện nay)
Do đó, không đủ thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến người lao động không nhận được trợ cấp thất nghiệp.
3. Thứ ba, do người lao động chậm nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Thời hạn nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng là một trong những vấn đề mà người lao động cần lưu ý, vì nếu nộp chậm sẽ không được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo đó, theo khoản 1 điều 46 Luật việc làm năm 2013 thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập.
Do đó, nếu sau thời hạn này, người lao động mới nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp thì sẽ không được giải quyết.
Cụ thể, sau thời hạn này mà người lao động chưa nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao độngđược xác định là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp. Thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp (chưa nhận trợ cấp thất nghiệp) sẽ được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.
4. Không thông báo về việc tìm kiếm việc làm trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng NLĐ phải trực tiếp thông báo về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, trừ một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng không thông báo về việc tìm kiếm việc làm hàng tháng theo quy định thì sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo đó, dù đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp và đã hưởng trợ cấp thất nghiệp tháng đầu tiên, nhưng nếu người lao động không thông báo tìm kiếm việc làm hàng tháng thì cũng không được nhận trợ cấp thất nghiệp cho những tháng tiếp theo.
Nếu vẫn còn thời gian được hưởng trợ cấp theo quyết định thì người lao động sẽ tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp khi thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm hàng tháng theo quy định.