Pháp luật nhà Lê là sự kết hợp hài hòa của hai nhân tố nhân trị và pháp trị
Pháp luật nhà Lê là hệ thống pháp luật hoàn thiện nhất, là đỉnh cao trong tiến trình lập pháp của xã hội phong kiến Việt Nam.
Thời kỳ nhà Lê, hệ tư tưởng Nho giáo được coi là một hệ tư tưởng chiếm vị trí độc tôn trong việc tổ chức, cai trị xã hội. Ý thức hệ chủ đạo của Nho giáo là dùng lễ trị, nhân trị để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng lễ trị là dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân chúng, là nền tảng của mọi quan hệ xã hội theo những thứ bậc, trật tự, gồm quan hệ vua tôi lấy chữ trung làm đầu; quan hệ thầy trò coi trọng chữ nghĩa; quan hệ giữa cha mẹ với con cái lấy chữ hiếu làm trọng, quan hệ anh em lấy chữa hóa để duy trì và bạn bè dùng chữ tín để xác lập,…Bên cạnh đó chủ nghĩa nhân trị đề cao các giá trị đạo đức khác, đòi hỏi con người xử sự với nhau phải có lòng nhân ái, độ lượng, thương yêu nhau; giữa nhà nước với dân chúng (nhất là đối với người phạm tội) phải có sự khoan hồng, nhân đạo.
Tuy nhiên để cho các giáo lý này được thấm nhuần và trở thành quy phạm xử sự bắt buộc trong xã hội nên cần phải dùng pháp trị, hình trị. Tức trong một số trường hợp để bảo đảm các giá trị nhân, lễ này phát huy tối đa hiệu lực cần phải dùng đến những hình phạt đối với người không tuân thủ.
Đối với người phạm vào tội thập ác mà xâm phạm đến khách thể là các quan hệ chính trị (tội mưu phản, tội mưu bạn, tội mưu đại nghịch, tội bất kính) làm ảnh hưởng đến an nguy Tổ Quốc (đại diện là vua); khách thể là các quan hệ hôn nhân gia đình (tội ác nghịch, tội bất hiếu, tội bất mục, tội nội loạn) làm ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội; khách thể là các luân lý đạo đức xã hội (tội bất đạo, tội bất nghĩa) nhóm tội thập ác là nhóm tội đặc biệt nghiêm trọng đã xâm phạm vào những khách thể mà không thể tha thứ được, hình phạt dành cho tội phạm này thường rất nghiêm khắc, rất nặng nề hạn chế những quy định mang tính giảm nhẹ, đặc biệt khi đã cấu thành hình thức.
Pháp luật không nêu định nghĩa về hình phạt nhưng hình phạt là loại chế tài phổ biến nhất áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm pháp luật bất kể trong lĩnh vực nào. Chính vì không có sự phân định rõ ràng giữa hành vi phạm tội với những loại vi phạm pháp luật khác nên chế tài mang nặng tính trừng trị, nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ nó luôn đem đến những bất lợi cho người bị kết án sự tước bỏ hoặc hạn chế những quyền tự do nhân thân hay tài sản thậm chí cả quyền được sống, Pháp luật phong kiến nói chung và của nhà Lê nói riêng dùng hình phạt để bảo vệ nội dung và khách thể của pháp luật vốn được xây dựng trên cơ sở nhân trị và đức trị, Nói cách khác việc dùng hình phạt (pháp trị) để bảo vệ các giá trị tư tưởng nhân văn của học thuyết Khổng – Mạnh.
Vì lẽ đó, nội dung của pháp luật hình sự thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp giữa hai hệ tư tưởng pháp trị với lễ trị và nhân trị. Điều này thể hiện rõ nét hơn trong chế định hình phạt của luật nhà Lê. Việc quy định hình phạt thể hiện sự cứng nhắc thậm chí quá tỉ mỉ và phân hóa theo mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Cả hai ý thức hệ nêu trên thẩm thấu một cách nhuần nhuyễn hòa quyện vào nhau và được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật. Quan niệm nhân trị, lễ trị được các nhà làm luật lấy làm cơ sở để xây dựng nên nội dung của pháp luật cũng như xác định khách thể trong các quan hệ pháp luật. Tư tưởng pháp trị được các nhà làm luật sử dụng để cụ thể hóa thành các cách thức bảo vệ nội dung và khách thể của pháp luật. Đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhân, lễ và pháp và được thể hiện trong toàn bộ hệ thống pháp luật nhà Lê.
Vì vậy, không có gì mâu thuẫn khi điều luật này đề cao các giá trị lễ nghĩa nhân văn nhưng điều luật khác thể hiện sự mạnh tay (thậm chí thái quá) của pháp luật trong việc trừng trị người phạm tội.