Những Chủ thể nào được quyền đăng ký nhãn hiệu?

Ngày nay, các cá nhân, tổ chức kinh doanh đều chú trọng đến việc xây dựng nhãn hiệu gắn liền với hàng hóa, dịch vụ để tạo khả năng phân biệt đối với các cá nhân, tổ chức khác kinh doanh cùng lĩnh vực trên thị trường. Khi đã xây dựng nhãn hiệu, các cá nhân, tổ chức quan tâm hơn là việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình, tránh những rủi ro cạnh tranh không lành mạnh của các đối thủ trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào cũng có quyền đăng ký bảo hộ nhãn hiệu mà căn cứ vào Điều 87 (Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-VPQH Luật sở hữu trí tuệ 2005) thì chỉ có những cá nhân, tổ chức đáp ứng một trong các điều kiện sau đây thì mới có quyền đăng ký nhãn hiệu:

– Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.

– Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.

– Đối với nhãn hiệu tập thể thì tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

– Đối với nhãn hiệu chứng nhận thì tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

– Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây:

+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh;

+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ.

– Người có quyền đăng ký nhãn hiệu (kể cả người đã nộp đơn đăng ký) có quyền chuyển giao quyền đăng ký dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật cho tổ chức, cá nhân khác với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký tương ứng.

– Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ thì không chỉ có tổ chức mới có quyền đăng ký nhãn hiệu mà cá nhân cũng có quyền đăng ký nhãn hiệu nếu đáp ứng về mặt chủ thể có quyền đăng ký theo quy định. Đối với nhãn hiệu thông thường thì chủ thể sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ của mình thì có quyền đăng ký nhãn hiệu; đối với chủ thể hoạt động thương mại hợp pháp chỉ được đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mình đưa ra thị trường mà người khác sản xuất thì phải đáp ứng hai điều kiện sau:

– Người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm;

– Người sản xuất không phản đối việc đăng ký đó.

Như vậy, trước khi tiến hành đăng ký nhãn hiệu, các tổ chức, cá nhân phải xem xét mình có đảm bảo về mặt chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hay không, trường hợp không có quyền đăng ký những được Cục Sở Hữu Trí Tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thì khả năng cao Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó sẽ bị hủy bỏ hiệu lực do chủ đơn không có quyền đăng ký theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 96 (Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-VPQH Luật sở hữu trí tuệ 2005):

“1. Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực trong các trường hợp sau đây:

a) Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được chuyển nhượng quyền đăng ký đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu;”

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *