Lấy cắp thông tin của người khác đi vay tiền bị xử lý thế nào?
Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP định nghĩa thông tin cá nhân như sau:
“Thông tin cá nhân là thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm ít nhất một trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số CMND, số hộ chiếu. Những thông tin thuộc bí mật cá nhân gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác.”
Do đó, thông tin cá nhân có thể coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư của cá nhân và là bất khả xâm phạm, được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự. Việc sử dụng thông tin liên quan đến bí mật cá nhân phải được sự đồng ý của người đó.
Do đó, hành vi sử dụng thông tin cá nhân của người khác để vay tiền là hành vi vi phạm pháp luật. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi, người lấy cắp thông tin người khác để vay tiền có thể bị xử lý như sau:
Xử phạt hành chính
Cụ thể, hành vi sử dụng trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng theo điểm c khoản 2 Điều 84 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.
Ngoài ra, mới đây, Bộ Công an cũng đang dự thảo Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Trong đó, khoản 2 Điều 2 dự thảo nêu rõ, dữ liệu cá nhân gồm dữ liệu cơ bản và nhạy cảm, dùng để xác định một cá nhân cụ thể. Trong đó, số điện thoại, địa chỉ liên hệ, địa chỉ email, nơi ở, số CMND/CCCD, số hộ chiếu… là dữ liệu cá nhân cơ bản.
Đặc biệt, dự thảo đề xuất nếu vi phạm quy định về sự đồng ý của chủ thể dữ liệu với dữ liệu cá nhân thì có thể phạt tiền từ 50 – 80 triệu đồng; nếu vi phạm lần 02 thì có thể bị phạt từ 80 – 100 triệu đồng.
Bồi thường thiệt hại
Nếu hành vi lấy thông tin của người khác khi không được phép và dùng để vay tiền gây thiệt hại cho người bị lấy cắp thông tin thì người vi phạm có thể phải bồi thường thiệt hại bởi khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự nêu rõ:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Đồng thời, khoản 1 Điều 585 Bộ luật này cũng quy định:
“Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.”
Do đó, nếu hành vi lấy thông tin cá nhân để vay tiền gây thiệt hại cho người bị lấy thông tin thì tùy vào mức độ thiệt hại xảy ra, người này có thể yêu cầu người vi phạm phải bồi thường thiệt hại cho mình.
Mức bồi thường, phương thức bồi thường… do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.