Đối tượng và phương pháp điều chỉnh ngành luật hành chính

1. Đối tượng điều chỉnh ngành luật hành chính

a. Khái niệm

Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước với nội dung là chấp hành và điều hành:

– Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước.

– Các hoạt động quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự xã hội trên từng địa phương và từng ngành.

– Trực tiếp phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây phải được xác định là mục tiêu hàng đầu của quản lý hành chính.

– Khen thưởng, trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp và đạt được những thành quả nhất định trong lĩnh vực hành chính nhà nước hoặc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật định; xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước…..

b. Đối tượng điều chỉnh ngành luật hành chính gồm:

– Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý hành chính NN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

Nhóm quan hệ xã hội này là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính, bao gồm các quan hệ sau:

+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính Nhà nước cấp dưới theo hệ thống ngành dọc.

+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.

+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn trung ương với cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp dưới trực tiếp, nhằm thực hiện chức năng quản lý.

+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.

+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc đóng tại địa phương đó.

+ Giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc.

+ Giữa cơ quan hành chính với các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

+ Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

+ Giữa cơ quan hành chính nhà với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.

– Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình cơ quan Nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức và hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của mình.

+ Công tác nội bộ: thành lập, sáp nhập, giải thể, chia tách cơ quan nhà nước, bổ nhiệm chức vụ, chức danh…

+ Công tác nhân sự: tổ chức thi tuyển, xếp ngạch công chức, luân chuyển, tuyển dụng, điều động, biệt phái, phân công công tác,..

Giải quyết vấn đề liên quan đến quyền lợi công chức: lương, thưởng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, nghỉ lễ, nghỉ hàng năm, chế độ thai sản, khen thưởng, kỷ luật,….

– Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.

+ Nhà nước trao quyền trong 2 trường hợp:

++ Không có cqnn hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động quản lý (người chỉ huy máy bay, tàu biển khi nó đã rời khỏi sân bay, bến cảng có quyền tạm giữ người có hành vi gây cản trở chuyến đi,… sau đó giao cho người có thẩm quyền giải quyết)

++ Khi NN thấy việc trao quyền này là cần thiết, đưa lại hiệu quả cao hơn (tiết kiệm tiền của, thời gian thuận lợi cho các bên liên quan)

+ Cá nhân được trao quyền gồm:

++ Bất kỳ cá nhân nào khi ở trong hoàn cảnh được PL đã giả định trước

++ Là người có thẩm quyền trong cqNN, đơn vị tổ chức (không phải thẩm quyền quản lý hành chính) khi ở trong những hoàn cảnh nhất định được nhà nước trao quyền quản lý hành chính.

+ Tổ chức xã hội:

++ Tổ chức tự quản: ban thanh tra nd, đội tự quản an ninh, trật tự…

++ Các tổ chức chính trị – xã hội: Công đoàn được trao quyền kiểm tra việc thực hiện pháp luật về lđ.

2. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính

a. Khái niệm:

– Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức tác động đến các quan hệ xã hội bằng pháp luật.

– Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là cách thức nhà nước áp dụng trong việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

– Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh, vì:

+ Phương pháp mệnh lệnh xuất phát từ đặc điểm của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật hành chính.

+ Trật tự quản lý hành chính (khách thể quản lý hành chính) phản ánh lợi ích của nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội mà không phải là lợi ích trực tiếp của cả 2 bên

b. Biểu hiện:

– Trước hết, chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lý. Cụ thể như:

+ Một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra sự thực hiện chúng. Phía bên kia có nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền. 

+ Một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó. 

+ Cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định điều gì, phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quyết định.

– Thứ hai, sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Các trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể nội dung và giới hạn.

– Thứ ba, sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính.

+ Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lý hành chính khác, dựa vào thẩm quyền của mình do pháp luật quy định, trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lý thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của các chủ thể trong quản lý hành chính nhà nước.

Trong thực tiễn quản lý có nhiều trường hợp cơ quan hành chính ra quyết định do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị cơ sở hay cá nhân. Cũng có nhiều trường hợp, trước khi ra quyết định các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tổ chức trao đổi, thảo luận về quyết định với sự tham gia của đại diện cơ quan cấp dưới, đơn vị cơ sở hoặc những người có liên quan. Ngay cả trong trường hợp này quyết định của cơ quan có thẩm quyền vẫn có tính chất đơn phương vì yêu cầu của các cá nhân, tập thể, của cấp dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các cuộc thảo luận không có tính chất quyết định mà chỉ là những ý kiến để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước xem xét, tham khảo trước khi ra quyết định.

+ Những quyết định hành chính đơn phương có tính chất bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan. Tính chất bắt buộc được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

c. Nguyên tắc xây dựng phương pháp điều chỉnh của ngành luật hành chính.

– Trong quan hệ quản lý hành chính nhà nước luôn có sự không bình đẳng giữa các bên tham gia: một bên nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra các quyết định hành chính, còn bên kia phải phục tùng những quyết định ấy.

– Bên nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước có quyền đơn phương ra quyết định trong phạm vi thẩm quyền của mình vì lợi ích của nhà nước, của xã hội.

– Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên có liên quan và được đảm bảo thi hành bằng quyền lực nhà nước.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *